Thế chiến II (1943-1945) USS New Jersey (BB-62)

Chạy thử máy và hoạt động cùng Đệ Ngũ Hạm đội của Đô đốc Spruance

Sau khi hoàn tất việc trang bị vũ khí, New Jersey cùng thủy thủ đoàn đã tham gia huấn luyện ở Tây Đại Tây Dươngvùng biển Caribbean. Vào ngày 7 tháng 1 năm 1944, con tàu di chuyển qua kênh đào Panama và di chuyển tới đảo Funafuti thuộc quần đảo Ellice. Con tàu có mặt tại đó vào ngày 22 tháng 1 và được đưa vào Đệ Ngũ Hạm đội, và 3 ngày sau đó, gia nhập Nhóm Đặc nhiệm 58.2 (TG 58.2) tham gia vào chiến dịch đánh chiếm quần đảo Gilbert và Marshall. New Jersey tham gia bảo vệ các đội hàng không mẫu hạm khỏi các cuộc không kích của người Nhật trong khi các mẫu hạm của TG 58.2 cho máy bay xuất kích tấn công đảo KwajaleinEniwetok từ ngày 29 tháng 1 tới ngày 2 thàng, mở đường cho cuộc đổ bộ vào ngày 31 tháng 1.

Thiết giáp hạm USS New Jersey (BB-62) đang khai hỏa dàn pháo 5-inch (127 mm) vào 1 tàu vận tải của Nhật Bản trong chiến dịch Hailstone, ngày 17 tháng 2 năm 1944.

New Jersey được chọn làm kì hạm của Đô đốc Raymond A. Spruance vào ngày 4 tháng 2 - tư lệnh Đệ Ngũ Hạm đội. Chiến dịch đầu tiên mà New Jersey tham gia là chiến dịch Hailstone - chiến dịch không kích/bắn phá căn cứ của hạm đội Nhật Bản tại Truk, thuộc quần đảo Carolines, trong vòng 2 ngày. Cuộc tấn công này đã gây thiệt hại khiến Hải quân Nhật không thể ngăn cản các chiến dịch ở quần đảo Marshall của người Mỹ không lâu sau đó. Từ ngày 17 tới ngày 18 tháng 2, nhóm đặc nhiệm đã bắn chìm 2 tuần dương hạm hạng nhẹ, 4 khu trục hạm, 3 tàu chở quân, 2 tàu tiếp tế tàu ngầm, 2 tàu săn ngầm, 1 tàu quét mìn, 1 phà chở máy bay và 23 tàu vận tải các loại, chưa bao gồm các tàu nhỏ hơn. New Jersey bắn chìm 1 tàu quét mìn và góp phần bắn chìm các tàu khác, trong đó có khu trục hạm Maikaze. Nhóm đặc nhiệm quay trở lại quần đảo Marshalls vào ngày 19 tháng 2.

Từ ngày 17 tháng 3 tới ngày 10 tháng 4, New Jersey hoạt động cùng chiếc Lexington - kì hạm của Chuẩn Đô đốc Marc A. Mitscher, tham gia vào chiến dịch không kích vàn bắn phá đảo san hô Mille, sau đó gia nhập lại Nhóm Đặc nhiệm 58.2 để tham gia đánh chặn đoàn vận tải tới Palaus, và bắn phá Woleai. Sau khi trở về Majuro, Đô đốc Spruance chuyển cờ hạm của mình sang chiếc Indianapolis.[11] Hoạt động tiếp theo của New Jersey, từ ngày 13 tháng 4 tới ngày 4 tháng 5 năm 1944, bắt đầu và kết thúc ở Majuro. Con tàu tham gia bảo vệ các đội mẫu hạm trong các chiến dịch ở Aitape, vịnh Tanahmerahvịnh Humboldt, New Guinea vào ngày 22 tháng 4, và pháo kích tàu tiếp tế và hệ thống cơ sở hạ tầng ở Truk vào ngày 29-30 tháng 4.

USS New Jersey (BB-62) đang pháo kích Tinian, tháng 6 năm 1944.

Sau các buổi huấn luyện chuẩn bị cho chiến dịch đánh chiếm Marianas, New Jersey ra khơi vào ngày 6 tháng 6 cùng với Lực lượng Đặc nhiệm của Đô đốc Mitscher. 2 ngày trước cuộc đổ bộ, New Jersey bắn hạ 1 máy bay phóng lôi, và trong 2 ngày tiếp theo, con tàu tham gia oanh tạc đảo SaipanTinian, để dọn đường cho cuộc đổ bộ của Thủy quân Lục chiến vào ngày 15 tháng 6.[11] Người Nhật nhanh chóng triển khai lực lượng để đáp trả cuộc tấn công của Mỹ. Trong khi các đội tàu ngầm âm thầm theo dõi toàn bộ hoạt động của tàu chiến Nhật Bản thì lực lượng của Đô đốc Spruance đã gia nhập với lực lượng của Đô đốc Mitscher để đón chờ người Nhật. New Jersey đã bảo vệ đội mẫu hạm trong khi phi công Mỹ và Nhật Bản đối đầu nhau quyết liệt ở trận biển Philippines. Trận chiến ngày hôm đó còn được biết đến qua cái tên "Cuộc bắn gà tây ở Marianas", khi người Nhật mất tầm 400 máy bay nhưng chỉ đổi lại khoảng 12 máy bay Mỹ. Số lượng phi công và máy bay bị mất này tương đương với thảm họa 2 hàng không mẫu hạm TaihōShōkaku bị đánh chìm bởi tàu ngầm AlbacoreCavalla, và việc mất mẫu hạm Hiyō bởi máy bay từ mẫu hạm hạng nhẹ Belleau Wood. Ngoài ra các tổn thất trên, hải quân Đồng Minh còn làm hư hại thêm 2 hàng không mẫu hạm và 1 thiết giáp hạm của người Nhật. Hỏa lực phòng không của New Jersey và các tàu chiến Mỹ khác gần như không thể xuyên thủng, 2 tàu chiến Mỹ bị hư hại nhẹ và họ chỉ mất 17 máy bay trong toàn bộ trận đánh.

Hoạt động cùng Đệ Tam Hạm đội của Đô đốc Halsey

Những đóng góp cuối cùng của New Jersey trong chiến dịch ở Marianas là pháo kích đảo Guamquần đảo Palaus, sau đó trở về Trân Châu Cảng vào ngày 9 tháng 8. Tại đây, con tàu trở thành kì hạm của Đô đốc William F. Halsey Jr., và vào ngày 24 tháng 8, trở thành kì hạm của Đệ Tam Hạm đội của Hải quân Hoa Kỳ. Vào này 30 tháng 8, New Jersey khởi hành từ Trân Châu Cảng, và dành 8 tháng tiếp theo đóng quân tại căn cử ở Ulithi để chuẩn bị hỗ trợ cho các chiến dịch của quân Đồng Minh ở Philippines.

Vào tháng 9, con tàu tham gia pháo kích Visayas và khu vực miền nam Philippines, sau đó là Manila, Cavite, Panay, Negros, LeyteCebu. Vào đầu tháng 10, New Jersey pháo kích các căn cứ không quân của người Nhật ở OkinawaFormosa để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ vào Leyte ngày 20 tháng 10 năm 1944. Chiến dịch này cũng chứng kiến cuộc xuất kích chủ lực cuối cùng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Người Nhật lên kế hoạch dùng Hạm đội Phương Bắc với lực lượng máy bay lớn làm mồi nhử để kéo toàn bộ thiết giáp hạm, tuần dương hạm và hàng không mẫu hạm của Halsey, đang làm nhiệm vụ bảo vệ đoàn đổ bộ, ra khỏi Leyte. Điều này cho phép Lực lượng Trung Tâm của Kurita dễ dàng tiến thẳng vào eo San Benardino. Mở màn trận đánh, máy bay từ mẫu hạm được New Jersey hộ tống đã gây thiệt hại nặng tới Lực lượng Phương Nam và Trung Tâm của người Nhật, đánh chìm thiết giáp hạm Musashi vào ngày 23 tháng 10. Trong ngày tiếp theo, Halsey mắc phải bẫy của người Nhật khi đã điều toàn bộ tàu chiến của ông đi truy đuổi Hạm đội Phương Bắc của Phó Đô đốc Jisaburō Ozawa. Máy bay từ lực lượng của Halsey đã đánh chìm 4 hàng không mẫu hạm, 1 khu trục hạm và 1 tuần dương hạm của Ozawa, trong khi đó New Jersey di chuyển hết tốc lực về mối đe dọa lớn hơn ở Samar - Lực lượng Trung tâm của Takeo Kurita. Tuy nhiên lực lượng này đã rút lui khi New Jersey có mặt tại khu vực.

Pháo thủ phòng không của New Jersey đang bất lực nhìn 1 chiếc kamikaze lao vào hàng không mẫu hạm Intrepid.

New Jersey hội ngộ cùng lực lượng mẫu hạm chủ lực gần San Benardino vào ngày 27 tháng 10 năm 1944 để chuẩn bị cho cuộc tấn công vào khu vực trung tâm và nam Luzon. 2 ngày sau, lực lượng này bị tấn công dữ dội bởi những máy bay Thần Phong. Hỏa lực phòng không của New Jersey đã giúp bắn hạ nhiều máy bay Nhật Bản, trong đó có 1 máy bay đang cố gắng lao vào hàng không mẫu hạm Intrepid, nhưng lại bị hỏa lực phòng không của Intrepid bắn trúng tàu, làm thương 3 thủy thủ của New Jersey. Vào ngày 25, 3 chiếc nữa bị bắn hạ, trong đó có mảnh vụ của 1 chiếc văng vào sàn bay của Hancock, tạo 1 đám cháy nhỏ. Intrepid lại bị tấn công lần nữa. Con tàu đã bắn hạ 1 chiếc Kamikaze, nhưng lại 1 chiếc khác đâm vào mặc dù đã bị pháo của New Jersey bắn trúng. New Jersey đồng thời bắn hạ 1 chiếc đang lao vào mẫu hạm Cabot và 1 chiếc nữa, vốn đâm vào mạn trái phần mũi tàu của Cabot.

Thiết giáp hạm New Jersey đang vượt sóng dữ, tháng 11 năm 1944. Hàng không mẫu hạm di chuyển phía trước New Jersey là Hancock.

Ngày 18 tháng 12 năm 1944, các tàu chiến thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 38 bất ngờ đi vào cơn bão Cobra. 1 hạm đội gồm 7 hàng không mẫu hạm chủ lực, 6 hàng không mẫu hạm hạng nhẹ, 8 thiết giáp hạm, 15 tuần dương hạm và hơn 50 khu trục hạm, bị cơn bão bao trùm khi đang chuẩn bị việc tiếp tế nhiên liệu. Lúc đó, hạm đội đang hoạt động ở biển Philippines, ở vị trí cách Luzon khoảng 500 km về phía Đông. Đội mẫu hạm này vừa kết thúc các đợt xuất kích kéo dài 3 ngày vào các sân bay của Nhật và ngăn chặn các đợt tấn công của máy bay Nhật vào lực lượng đổ bộ của Mỹ ở Mindoro. Đội đặc nhiệm này tập kết với đội tiếp tế của Đại tá Jasper T. Acuff ngày 17 tháng 12 để tái bổ sung nhiên liệu cho toàn bộ tàu và thay thế số máy bay bị mất.

Dù biển động ngày càng mạnh, các nhiễu động xoáy thuận gần khu vực đó không cho lại bất cứ thông tin gì về cơn bão sắp tới. Mỗi hàng không mẫu hạm của Đệ Tam Hạm đội đều có 1 nhân viên thời tiết trên tàu, và kì hạm New Jersey của hạm đội cũng có 1 nhân viên thời tiết dày dạn kinh nghiệm - Trung tá G.F Kosco, tốt nghiệp khoa Khí tượng tại Học viện Công nghệ Massachusetts và đồng thời đã nghiên cứu về các cơn bão ở Tây Ấn, dù vậy, không 1 ai trên những con tàu này đã kịp đưa ra cho Đệ Tam Hạm đội những cảnh báo kịp thời về cơn bão sắp tới. Vào ngày 18 tháng 12, cơn bão nhỏ nhưng mạnh đã tràn qua vị trí của Đệ Tam Hạm đội, với nhiều tàu vẫn đang thực hiện dở việc tiếp nhiên liệu. Nhiều tàu nằm ngay giữa trung tâm cơn bão và bị ảnh hưởng bởi biển động rất mạnh và những cơn gió giật lớn. 3 khu trục hạm - Hull, MonaghanSpence - bị bão đánh lập úp và chìm với gần như toàn bộ thủy thủ đoàn, trong khi đó, 1 tuần dương hạm, 5 hàng không mẫu hạm và 3 khu trục hạm chịu thiệt hại đáng kể. Ước tính 790 sĩ quan và thủy thủ thiệt mạng, và hơn 80 người khác bị thương. 3 mẫu hạm khác bị bốc cháy vì máy bay đậu trong khoang chứa bị bão đánh tung khỏi vị trí, và phát nổ cùng với số đạn dược đi kèm. Hơn 140 máy bay thuộc nhiều tàu khác bị mất, hư hại đến mức không thể sửa chữa hoặc bị quét khỏi tàu. Dù vậy, như những thiết giáp hạm của TF-38, New Jersey đã khéo léo vượt qua cơn bão mà không chịu bất kì hư hại nào. Con tàu quay trở về Ulithi vào ngày Giáng Sinh để gặp gỡ với Đô đốc Chester Nimitz.

Hoạt động cùng Hải đội Thiết giáp hạm số 7 cùng Đô đốc Badger

New Jersey hoạt động thêm 1 thời gian cùng Đệ Tam Hạm đội, từ ngày 30 tháng 12 năm 1944 tới ngày 25 tháng 1 năm 1945. Con tàu tham gia bảo vệ đội hàng không mẫu hạm làm nhiệm vụ không kích Formosa, Okinawa, Luzon, Đông Nam Á, Hong Kong, SwatowAmoy. Vào ngày 27 tháng 1 tại Ulithi, Đô đốc Halsey chuyển kì hạm của mình ra khỏi New Jersey và con tàu được tiếp quản bởi Chuẩn Đô đốc Oscar C. Badger II - chỉ huy Hải đội Thiết giáp hạm số 7. Trong chiến dịch ở Iwo Jima, New Jersey bảo vệ đội của mẫu hạm Essex làm nhiệm vụ không kích đảo từ ngày 19 tới ngày 21 tháng 1, và bảo vệ hạm đội trong cuộc không kích Tokyo vào ngày 25 tháng 1. 2 ngày sau đó, lực lượng này tham gia không kích đảo Okinawa.

Thiết giáp hạm New Jersey (BB-62) neo đậu tại Vịnh Tokyo, tháng 12 năm 1945. Phía sau New Jersey là thiết giáp hạm Nagato của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.

New Jersey tham gia vào chiến dịch Okinawa từ ngày 14 tháng 3 tới ngày 16 tháng 4. Trong khi các hàng không mẫu hạm đang chuẩn bị cho chiến dịch không kích Honshū, New Jersey chống trả lại các cuộc không kích, phóng thủy phi cơ để giải cứu những phi công bị bắn hạ, bảo vệ đội mẫu hạm khỏi các cuộc tấn công bằng máy bay cảm tử, bắn hạ ít nhất 3 chiếc và hỗ trợ bắn hạ nhiều chiếc khác. Vào ngày 24 tháng 3 năm 1945, con tàu làm nhiệm vụ pháo kích Okinawa. Vào những tháng cuối cùng của cuộc chiến, New Jersey được nâng cấp trang bị tại Xưởng Hải quân Puget Sound, và vào ngày 4 tháng 7, khởi hành tới San Pedro, Trân Châu Cảng và Guam. Vào ngày 14 tháng 8, con tàu 1 lần nữa trở thành kì hạm của Đô đốc Spruance của Đệ Ngũ Hạm đội. New Jersey lưu lại 1 thời gian ngắn ở Manila và Okinawa trước khi lên đường tới Vịnh Tokyo ngày 17 tháng 9, với vai trò kì hạm của Lực lượng Hải quân Đồng Minh tại vùng biển Nhật Bản, tới khi được thay thế bởi Iowa ngày 28 tháng 1 năm 1946. Con tàu đồng thời tham gia vào chiến dịch Magic Carpet, góp phần đưa hàng nghìn binh sĩ hồi hương, và cập bến San Francisco ngày 10 tháng 2 năm 1946.

Thời kì hậu Thế chiến II (1946-1950)

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: USS New Jersey (BB-62) http://www.panmacmillan.com/ http://www.southjerseynews.com/battleship/u010600a... http://www.history.navy.mil/research/histories/shi... http://www.nvr.navy.mil/SHIPDETAILS/SHIPSDETAIL_BB... http://www.battleshipnewjersey.org/visit/faq.php http://www.fas.org/irp/program/collect/pioneer.htm http://repo.njstatelib.org/bitstream/handle/10929.... https://web.archive.org/web/20141029011001/http://... https://www.battleshipnewjersey.org/own-a-piece-of...